Một câu ghép có thể nêu lên một số nhận định liên kết với nhau dưới dạng một lập luận. Đồng thời, người nghe còn có trách nhiệm rút ra một quan điểm để nó trở thành quan điểm của bản thân chứ không còn là của tác giả nữa. Họ đã quen với những ẩn ý, những biến đổi sắc thái ý nghĩa của các từ đó trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Nhưng để làm được điều đó, bạn lại phải học riêng rẽ từng động tác ngay lúc đầu. Quy luật chung là càng nỗ lực nhiều, hiệu quả càng cao. Cuối cùng, trong chương tiếp theo, chúng tôi sẽ kiểm tra lại các vấn đề liên quan đến đọc các thể loại văn học giả tưởng cụ thể (bao gồm tiểu thuyết, kịch và thơ trữ tình).
Khi bạn theo dõi bàn tay mình thì khó mà buồn ngủ, mơ màng hay để đầu óc nghĩ vẩn cơ. Có một điều chắc chắn là không phải từ nào tác giả sử dụng cũng đều quan trọng. Những vấn đề Aristotle bàn đến trong các chuyên luận và những cách hành văn khác nhau mà ông dùng để trình bày những phát hiện của mình đã giúp tạo nên một số chuyên ngành và cách tiếp cận môn triết học ở những thế kỷ tiếp theo.
Ví dụ từ reading (đọc) trong cuốn The Nature of the Physical World (Bản chất của thế giới vật chất) của tác giả A. Để tham gia vào quá trình đối thoại này, chúng ta cần đọc một tác phẩm lớn trong mối liên hệ với những tác phẩm khác và theo trình tự thời gian từ hiện tại trở về quá khứ hoặc từ quá khứ tới hiện tại. Thậm chí nếu một nhà khoa học xã hội cố gắng định nghĩa những thuật ngữ như vậy thì độc giả của ông ta cũng sẽ đặt dấu hỏi chấm cho cách sử dụng từ như vậy.
Chúng tôi muốn gọi đó là những ghi chú có tính biện chứng (lý do sẽ được giải thích trong Phần 4). Nếu tác giả tóm tắt các lập luận ở cuối chương hoặc cuối một phần nào đó, bạn có thể xem lại các trang trước để tìm những chi tiết được tác giả tổng hợp trong tóm tắt. Theo họ, điều này là không cần thiết.
Mỗi cuốn tiểu sử cuối cùng là một lát cắt của lịch sử một con người và thời đại người đó sống qua con mắt của chính ông ta. Cuốn Brave New World (Thế giới mới can đảm) của Aldous Huxley lại là một tác phẩm đầy tính hùng biện khi chỉ trích những mặt trái của các tiến bộ kỹ thuật. Một người có trình độ không gặp khó khăn gì trong việc thu thập những thông tin mới qua quá trình đọc, nếu các dữ kiện đó giống những gì anh ta đã biết.
Những nguyên tắc này có thể được nêu lên, nhưng không phải ở mọi nơi mọi lúc. Những gợi ý này có thể rút ra từ các quy tắc đọc sách mô tả. Phần 2 và 3 - miêu tả các thành phần cấu tạo nên Hạ viện và Thượng viện, đồng thời nêu rõ phẩm chất chuyên môn của từng thành viên trong viện.
Thứ hai, việc mọi người bất đồng quan điểm không có gì quan trọng. Để làm được như thế, cách duy nhất là sử dụng ngôn ngữ điêu luyện hết mức có thể khi truyền đạt hay thu nhận kiến thức. Tuy nhiên, trong quá trình sắp xếp đó, bạn không thể tránh khỏi mắc lỗi.
NHỮNG GÌ ĐƯỢC ĐỀ CẬP CHI TIẾT VÀ ĐỀ CẬP NHƯ THẾ NÀO? Bạn phải cố gắng tìm ra các ý chính, những điều khẳng định, những luận cứ tạo nên thông điệp đặc biệt của tác giả. Phần này rất cần thiết đối với những độc giả đã đọc hết cả cuốn sách. Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng giữa đọc cuốn sách loại này với đọc một cuốn sách thuần lý thuyết.
Hệ thống hoá triết học: Vào thế kỷ XVII, một kiểu trình bày khác của triết học ra đời nhờ công của hai nhà triết học nổi tiếng là Descartes và Spinoza. Trên thực tế, những ngày tháng năm này đã được tranh cãi rất nhiều, không phải trên phương diện sự kiện mà trên phương diện thời gian. Câu hỏi đầu tiên về sự tiến bộ là Sự tiến bộ có diễn ra trong lịch sử không? và Có phải những thay đổi trong lịch sử loài người đều theo hướng tốt lên?.